The Diplomat
Người Trung Quốc đang tới!
Bài của Douglas H. Paal
Ngày 1 tháng 5-2011
Chuyện đang ồn ào về lực lượng quân sự Trung Hoa làm ta nhớ lại những nỗi sợ đối với nước Nga thời Chiến tranh Lạnh. Thế mà Hoa Kỳ lại chẳng có phản ứng gì quá đáng khi có những tin tức về con tày sân bay mới của Trung Quốc.
Năm 1966, Hollywood cho ra mắt một bộ phim hài về Chiến tranh Lạnh kể chuyện chiếc tàu ngầm Nga bị mắc cạn tại một thành phố nhỏ của bang New England. Phim hay và khéo léo chộp được đúng cái cơn điên vô lối của thời kỳ đó về những ý đồ quân sự của Liên Xô. Bộ phim tên là Người Nga kia kìa! Người Nga kia kìa! Tôi khuyên bạn nếu có thể thì hãy kiếm một cái đĩa sao phim đó mà coi.
Còn bây giờ, xin bạn hãy sẵn sàng xem chuyện mới về người Trung Quốc: không xem phim, mà xem cái cơn điên đã sống lại. Trung Quốc đang sắp sửa hạ thủy đưa vào hoạt động con tàu sân bay đầu tiên của họ, nghe đồn nó có tên Shi Lang, theo tên ông đô đốc đã chiếm được đảo Đài Loan hồi thế kỷ thứ 17. Đồn rằng trước đó nó có tên là Varyag khi con tàu đang đóng cho Hải quân Liên Xô, về sau thì cho Hải quân Ukraina, và đến năm 1998 thì vào tay Trung Quốc khi con tàu vẫn chưa đóng xong, mua đấu giá 20 triệu USD.
Vẫn chưa có các thiết bị điện tử và hệ thống đẩy, đồn rằng con tàu ban đầu định mua về để làm sòng bạc nổi ở Macao, nhưng sau một hành trình chuyên chở về từ Ukraina và đi vòng quanh châu Phi, nó dừng lại ở Đại Liên tại vùng Đông-Bắc trung Hoa, tại đây nó được đưa vào xưởng đóng và sửa chữa tàu và được sơn màu xám thành con tàu của Quân Giải phóng Nhân dân. Như vậy là, cùng với việc sơn phết cũng là việc lắp đặt cho nó phần điện tử và hệ thống đẩy còn chưa có.
Chính thức ra thì Trung Hoa không cởi mở về các ý đồ của họ đối với việc có tàu sân bay. Các nguồn tin Trung Hoa nói rằng có những cuộc thảo luận vô hồi kỳ trận về những mối nguy và mối lợi một khi có được một hoặc hai chiếc tàu sân bay. Về mối lợi, thì đó là uy tín và cái cảm giác đã “thành đạt” với tư cách một cường quốc. Thực dụng hơn nữa, trước khi quyết định tổng chi phí, phải tính toán đến việc nếu dùng thử một con tàu sân bay thì Quân Giải phóng nhân dân phải chi phí chính xác hơn là bao nhiêu, cách huấn luyện sẽ như thế nào, và những điều chỉnh cần thiết trong tác chiến sẽ là những gì. Một số người cho rằng tàu sân bay làm giảm khó khăn trong việc bảo vệ những đòi hỏi mở rông lãnh thổ Trung Hoa tại vùng Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông).
Về các mối nguy, một số người Trung Hoa lập luận rằng dùng các con tàu sân bay là không thông minh về mặt kinh tế hoặc về chiến lược trong một thời đại có những đe dọa cũ nhưng đã được nâng cao chống lại cách tác chiến với nhóm chiến hạm có tàu sân bay. Chưa kể là, khi đã có một nhóm tàu chiến có tàu sân bay sẽ càng tăng cường mối nghi ngại của các nước láng giềng đối với ý đồ hiếu chiến của Trung Quốc.
Hiện nay, rõ ràng là Trung Quốc đang dần dần đưa ra các tin tức chính thức trong các Tuyên bố và các bản tin nói rằng phe ủng hộ tàu sân bay đã thắng trong cuộc tranh luận (về chính sách này), ít ra thì cúng là thắng tạm thời. Bắc Kinh đã đưa tin nhỏ giọt và bóng gió rằng con tàu sân bay đang hoàn thành, có thể điều đó nằm ngoài mối quan tâm về các phản ứng của các nước láng giềng, kể cả việc các láng giềng cũng tăng cường trang bị quân sự chống lại mối đe dọa đã rành rành. Lý ra khôn ngoan hơn thì Bắc Kinh cũng nên thận trọng trong cả việc nói quá nhiều về sự phát triển của mình do có những thách thức vô cùng to lớn đặt ra cho Quân Giải phóng Nhân dân trong việc học cách sử dụng các tính năng của con tàu sân bay.
Các sĩ quan Hải quân cao cấp Hoa Kỳ và nhiều đồng nghiệp của họ trong Hải quân các nước châu Á coi tàu sân bay (của Trung Quốc) như là một mối đe dọa có thể dàn xếp được ngay cả khi Bắc Kinh đã biết cách triển khai tàu sân bay. Thật vậy, có những lời nói đùa cho rằng họ hy vọng Trung Quốc sẽ có năm nhóm tàu chiến có tàu sân bay và tiêu phí thêm tiền của lẽ ra có thể dồn cho những hệ thống khác ít mang tính chất đe dọa hơn. Tất cả bọn họ đều cho rằng trong năm nay họ đang theo dõi chặt chẽ những nỗ lực của Trung Hoa thực thi kế hoạch tàu sân bay của mình.
Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo Bloomberg, Đô đốc tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Robert Willard mới đây đã không coi tác động của tàu sân bay (Trung Hoa) như là hết sức “có tính biểu trưng”, nhưng ông thêm rằng, “dựa trên tin tức chúng tôi nhận được từ các đối tác và đồng minh ở vùng Thái Bình Dương, tôi nghĩ rằng sự thay đổi quan niệm trong vùng là rất quan trọng”.
Trong nhiều thập niên, các quốc gia trong vùng thân thiện với Hoa Kỳ và nghi ngại Trung Hoa vẫn coi các tàu sân bay Hoa Kỳ như là biểu trưng tin cậy của khả năng ngăn chặn hành vi hiếu chiến của Trung Hoa chống lại họ. Điều này càng được tăng cường vào năm 1996 khi cựu Tổng thống Bill Clinton triển khai hai nhóm tàu chiến vào vùng biển gần Đài Loan để phản ứng lại những cuộc “tập trận” có dùng tên lửa của Trung Hoa nhằm đe dọa Đài Bắc.
Nếu Bắc Kinh xem chừng như cuối cùng sẽ chọn dùng tàu sân bay tác chiến ở vùng Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông), là nơi Hoa Kỳ tuyên bố có vai trò bảo đảm tự do giao thương nhưng không phải là nước đòi hỏi lãnh thổ ở đó, thì một số quốc gia đang đòi hỏi lãnh thổ ở đây sẽ cảm thấy sức mạnh quân sự của Trung Hoa mạnh mẽ hơn nhiều so với các thế kỷ trước đây.
Tất cả những điều này cho thấy rằng Washington và Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương cần triển khai một chiến lược bảo đảm cho toàn vùng một khi Trung Hoa triển khai tàu sân bay của họ. Một yếu tố trong chiến lược này là sử dụng các diễn đàn công khai lắng nghe tường trình để cho thấy rõ rằng tàu sân bay của Trung Hoa có thể nhận những phản đòn đã có sẵn trong tay Hoa Kỳ và các đồng minh của Hoa Kỳ tại đây. Một yếu tố thứ hai sẽ là nền ngoại giao đều kỳ và công khai kể cả ở cấp cao đồng thời với việc triển khai tập trận của Hoa Kỳ trong vùng.
Sự làm sống lại chính sách Á châu của chính quyền Obama là một cơ sở tốt và nó sẽ được tăng cường thêm nếu chính quyền Obama thành công trong việc thoát ra khỏi Iraq và Afghanistan và “cân bằng lại” một cách hữu hiệu sự chú ý của Mỹ trong vùng châu Á và Thái Bình Dương — một công việc vẫn đang được tiến hành.
Ta trông đợi Trung Hoa sẽ thận trọng như họ vẫn tỏ ra như vậy cho tới hiện nay khi họ công bố khả năng mới của mình trong hy vọng giảm thiểu chống đối và thu được sự đồng thuận về một thể chế mới cho Quân Giải phóng Nhân dân. Những cuộc mang tàu sân bay đi thăm viếng các bến cảng trong vùng và mời các nước trong vùng tới tham quan con tàu sân bay cuối cùng sẽ nâng cao vị thế một nước Trung Hoa cho tới nay vẫn nổi tiếng là cư xử tàn bạo với chính sách minh bạch về quân sự của họ.
Nhưng Bắc Kinh cũng vẫn thèm thuồng chuyện mang tàu sân bay của họ tới gần Việt Nam và có khi tới gần cả các nước khác nữa trong vùng nhằm gửi một thông điệp rắn tới những nước láng giềng vẫn cho rằng họ quá bé nhỏ để có thể ngang ngạnh với Trung Quốc. Ngược lại, những nước láng giềng này cũng sẽ có sự lựa chọn giữa việc họ nên liên kết sâu hơn “nông” hơn với Hoa Kỳ. Còn Washington thì có thể chọn lựa những quốc gia nào Mỹ muốn có liên kết sâu hơn.
Nói tất cả những điều đó để thấy là cuối cùng thì không nên phản ứng thái quá trước ý đồ của Trung Hoa mong muốn có được cái khả năng mà nhiều nước đã có trong tay, thậm chí là những khả năng chiến tranh đã cũ rồi. Song, đồng thời, cũng là điều cần thiết phải xử lý khoảng cách nhận thức về khả năng quốc phòng chuyên nghiệp giữa các nhà lãnh đạo và công chúng trong khi vẫn cứ phải suy nghĩ tính toán giữa nhiều khả năng để mà chọn lựa. Khi đó, có thể lại có một bộ phim ra đời chưa biết chừng.
Douglas H. Paal là phó chủ tích bộ phận phụ trách các công trình nghiên cứu của tổ chức Carnegie Endowment for International Peace. Trước đó ông là phó chủ tịch tổ chức JPMorgan Chase International và là đại diện không chính thức của Hoa Kỳ tại Đài Loan trong viện American Institute tại đây.
Người dịch: Đại Phúc