Tôn Giáo
QUAN NIỆM CỦA NHÀ PHẬT VỀ CÁI CHẾT
TÍN NGƯỠNG PHỒN THỰC
KHÁI QUÁT VỀ CÁC TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
Bàn về thuật ngữ ‘Tôn giáo’
Lâm Trực post lại từ Reds.vn
ĐẠO TIN LÀNH Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU TÂM
1. Sự hình thành đạo Tin lành và một số đặc điểm nhận biết
1.1 Sự hình thành đạo Tin lành
Nếu so sánh với các tôn giáo lớn trên thế giới như Phật giáo, Công giáo hay Hồi giáo thì Đạo Tin lành ra đời muộn hơn cả. Tuy nhiên, kể từ khi ra đời cho đến nay, đạo Tin lành đã phát triển rất mạnh, trở thành một tôn giáo quốc tế với khoảng 550 triệu tín đồ, gần 300 hệ phái tổ chức khác nhau và có mặt trên nhiều quốc gia.
Vào khoảng đầu thế kỷ XVI ở Châu Âu diễn ra sự phân biệt trong đạo Ki tô, dẫn tới việc ra đời của đạo Tin lành. Thực chất đó là cuộc cải cách tôn giáo và chính trị xã hội sâu sắc. Đạo Tin lành là kết quả của sự khủng hoảng đến mức trầm trọng về uy tín của Công giáo do những tham vọng quyền lực trần thế, sự sa sút về đạo đức của hàng giáo phẩm; là kết quả của sự lúng túng, bế tắc của nền thần học kinh viện thời trung cổ; là kết quả đầu tiên mà giai cấp tư sản mới ra đời giành được trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp phong kiến mà chỗ dựa tư tưởng của giai cấp này là đạo công giáo.
Phong trào cải cách tôn giáo nổ ra đầu tiên ở Đức. Người khởi xướng và trở thành lãnh tụ nổi tiếng của phong trào này là Matin Luther. Ông là người đã bỏ dở chương trình Đại học Luật Erfurt để quyết định “dâng mình cho Chúa” rồi tu tại dòng Oguxtino. Sau đó Luther trở thành giáo sư, tiến sĩ thần học của truờng Đại học tổng hợp Wittenberg. Khi có dịp sang Rôma, Luther đã hoàn toàn thất vọng vì tận mắt chứng kiến đời sống xa hoa trần tục của số đông giáo sỹ. Với sự kiện này ông đã nhen nhóm những ý tưởng cải cách tôn giáo. Sau đó Luther đã công bố 95 luận đề với nội dung phê phán kịch liệt việc lợi dụng danh thánh để bóc lột dân chúng, lên án chức vụ giáo hoàng và giáo quyền Rôma…
Những quan điểm của Luther đã được đông đảo các tầng lớp nhân dân Đức ủng hộ, nhất là các công hầu quý tộc. Đến năm 1532, trước sự lớn mạnh của phong trào này, hoàng đế Đức đã phải thừa nhận sự tự do hoạt động của đạo Tin lành.
Thụy Sĩ cũng là trung tâm lớn thứ hai của cuộc cải cách tôn giáo gắn với tên tuổi của Jean Calvin. Ông là người Pháp, đã từng theo học thần học và luật học bằng học bổng của giáo hội Công giáo nhưng do hưởng ứng phong trào cải cách của Luther nên bị trục xuất khỏi Pháp và sinh sống ở Thuỵ Sĩ. Calvin đã nghiên cứu và hình thành một giáo thuyết riêng đồng thời cải cách về lễ nghi, giáo hội làm chuẩn mực cho phần lớn các hệ phái Tin lành đi theo…
Từ trung tâm Đức và Thuỵ Sĩ, phong trào cải cách tôn giáo phát triển nhanh chóng sang Pháp, Scotlen, Ireland, Hà lan, Anh , Nauy, Đan mạch… Đến cuối thế kỷ XVI đã hình thành một tôn giáo mới tách hẳn khỏi đạo Công giáo. Trong quá trình phát triển của mình, đạo Tin lành đã hình thành rất nhiều hệ phái khác nhau như Trưởng lão, Menhônai, Moóc Mông, Ngũ tuần, Giám lý, Thanh giáo và Giáo hội cộng đồng, Cơ đốc Phục lâm, Giáo hội thống nhất, Môn đệ đấng Chrits, Hội Liên hiệp Phúc âm truyền giáo…
1.2. Đặc điểm nhận biết của đạo Tin lành
Đạo Tin lành có nhiều tổ chức hệ phái mặc dù có những dị biệt về giáo thuyết, nghi thức hành đạo và cách tổ chức giáo hội nhưng nhìn chung đều thống nhất ở những nội dung, nguyên tắc chính. Có thể khái quát và so sánh với đạo Công giáo:
Trước hết về thần học: Đạo Tin lành là một nhánh của Kitô giáo nên cũng lấy kinh thánh Cựu ước và Tân ước làm nền tảng giáo lý. Khác với Công giáo, Tin lành đề cao vị trí kinh thánh, coi đó là chuẩn mực căn bản duy nhất của đức tin và sự hành đạo, nhưng không coi kinh thánh là cuốn sách của riêng giáo sĩ mà tất cả các tín đồ, giáo sĩ đạo Tin lành đều đọc, sử dụng, nói và làm theo kinh thánh.
Đạo Tin lành cũng thờ Thiên chúa và thừa nhận chúa 3 ngôi: Cha, Con, Thánh thần; tin muôn vật đều do thiên chúa tạo dựng. Nhưng trong tín điều về Đức Bà hoài thai chúa GiêSu một cách mầu nhiệm, đạo Tin lành cho rằng Chúa chỉ mượn lòng bà Maria làm nơi sinh thành chứ Maria không thể là mẹ của Chúa dù theo bất cứ nghĩa nào, thậm chí sau khi sinh ra GiêSu, Maria không còn đồng trinh nữa và còn sinh rất nhiều con cái: Giacôp, Giôdep, Ximôn, Gruđa… Chính vì thế họ phản đối mọi sự thờ phụng bà Maria.
Là một tôn giáo đặc biệt đề cao lý trí trong đức tin. Do đó, luật lệ, lễ nghi, cách thức hành đạo của Tin lành đơn giản, không cầu kỳ rườm rà. Đạo Tin lành không thờ các tranh ảnh, hiện tượng cũng như dị vật phản đối việc hành hương đến các thánh địa. Trong 7 phép bí tích của đạo Công giáo, đạo Tin lành chỉ thừa nhận và thực hiện phép rửa tội và phép thánh thể. Nếu tín đồ đạo Công giáo xưng tội trong toà kín với linh mục là hình thức chủ yếu nhất thì tín đồ đạo Tin lành khi xưng tội và cầu nguyện có thể đứng giữa nhà thờ, đám đông để sám hối hoặc nói lên ý nguyện của mình một cách công khai. Thánh đường của đạo Tin lành thường có kiến trúc hiện đại, đơn giản. Trong thánh đường chỉ có duy nhất cây thập giá, biểu tượng của Chúa GiêSu bị nạn.
Về nhân sự, đạo Tin lành cũng có giáo sĩ như công giáo. Giáo sĩ đạo Tin lành có hai chức: mục sư và giảng sư, không áp dụng luật độc thân như giáo sĩ đạo Công giáo. Và có một điều đặc biệt là giáo sĩ Tin lành có nhiều người là nữ. Các giáo sĩ tuy cũng được coi là người chăm sóc linh hồn cho tín đồ nhưng không có quyền thay mặt Chúa để ban phúc hay tha tội cho con chiên.
Về phương diện tổ chức, đạo Tin lành không lập ra tổ chức giáo hội mang tính chất phổ quát cho toàn đạo mà đi theo hướng xây dựng các giáo hội riêng rẽ, độc lập với những hình thức khác nhau theo từng hệ phái, từng quốc gia. Trong tổ chức giáo hội, các hệ phái Tin lành chủ trương giao quyền tự trị cho các giáo hội cơ sở, chi hội, các cấp giáo hội bên trên hình thành phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cho phép. Giáo hội Tin lành không cấu thành bởi các vị giáo sĩ một cách cố định như Công giáo mà cả tín đồ, giáo sĩ tham gia thông qua bầu cử một cách dân chủ…
Nhìn chung, có thể thấy sự cải cách của Tin lành về cách thức hành đạo cũng như tổ chức giáo hội chịu ảnh hưởng đậm nét của tư tưởng dân chủ và khuynh hướng tự do cá nhân, giảm thiểu và bớt đi sự linh thiêng về luật lệ, lễ nghi, cơ cấu tổ chức của đạo Công giáo. Sinh hoạt tôn giáo không lệ thuộc nhiều vào việc lễ bái, nơi thờ tự, chức sắc… Người ta khó có thể đánh giá mức độ và nhu cầu tín ngưỡng của tín đồ Tin lành qua việc họ có đến nhà thờ tham dự các sinh hoạt tôn giáo hay không. Đối với tín đồ Tin lành, nếu có đức tin thì ở tại gia đình với quyển kinh thánh, họ có thể chu toàn bổn phận của một tín đồ.
Với lối sống đạo nhẹ nhàng đơn giản, không rườm rà và ràng buộc khắt khe như đạo Công giáo, lại đề cao tinh thần dân chủ trong các hoạt động về tổ chức nên đạo Tin lành là một tôn giáo có màu sắc mới mẻ, thích hợp với lối sống của giai cấp tư sản, tiểu tư sản, công chức thị dân nói chung trong xã hội công nghiệp. Ngày nay, người ta dễ dàng nhận thấy những nước có nền công nghiệp tiên tiến là những nước có đông người theo đạo Tin lành như Thụy Điển, Nauy, Đan Mạch, Đức, Anh, Hà Lan, Mỹ…
Bên cạnh đó, cũng có thể nhận thấy rằng Tin lành ra đời khi các tôn giáo lớn đã tạo được nhiều hình ảnh ở những địa bàn nhất định. Ví dụ như Phật giáo ở Châu Á, Công giáo ở Châu Âu, Hồi giáo ở Trung cận đông… Trước thực tế đó, Tin lành một mặt nỗ lực lôi kéo Công giáo ở Châu Âu, mặt khác tìm đến vùng xa xôi hẻo lánh để phát triển đạo. Ở những vùng này, đạo Tin lành không chỉ khai thác lợi thế là một tôn giáo có lối sống đạo đơn giản, đề cao dân chủ và vai trò cá nhân mà còn nghiên cứu rất kỹ đặc điểm văn hoá tâm lý, lối sống của từng dân tộc ở những vùng này để có phương thức phù hợp. Đặc biệt những nơi có phong tục tập quán lạc hậu, Tin lành xuất hiện với những điều mới lạ và tiến bộ lôi kéo người tin theo và trong những trường hợp đó đạo Tin lành phát triển rất nhanh. Vậy đối tượng tín đồ của Đạo Tin lành ngoài tầng lớp trí thức thị dân còn là dân tộc thiểu số.
Mặc dù được đánh giá là một tôn giáo “tiến bộ”, “năng động” và dễ thích nghi nhưng vì đạo Tin lành đề cao vai trò của kinh thánh, thậm chí có một số hệ phái Tin lành tỏ ra rất bảo thủ, không chấp nhận những điều gì trái với kinh thánh nên dẫn đến sự phản ứng đối kháng với văn hoá tín ngưỡng truyền thống của các tín đồ ở những nơi đạo Tin lành truyền bá.
2. Đạo Tin lành ở Việt Nam
2.1. Đặc điểm lịch sử
Với những đặc điểm riêng về địa lý, lịch sử, văn hoá, dân cư… Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo và loại hình tín ngưỡng. Trước khi đạo Tin lành được truyền vào, Việt Nam đã có các tôn giáo lớn như Phật giáo, Lão giáo, Công giáo. Đạo Tin lành có mặt ở Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ XIX do tổ chức Tin lành Liên hiệp phúc âm và truyền giáo Mỹ (CMA) truyền vào. Tổ chức này đã cử nhiều mục sư sang Việt Nam để tìm hiểu và thăm dò: Mục sư Tiến sĩ A.B Sumpsm (1887); D.Leclacher (1893); C.H Reves (1897); R.A Jaffray (1899); S.Dayan (1901)… Đến năm 1911, CMA đã cử R.A.Jaffray, Paul.M.Husel, G.LoyHugher đến Đà Nẵng lập Hội thánh đầu tiên. Đây là sự kiện đánh dấu mốc cho sự truyền bá đạo Tin lành vào Việt Nam. Từ cơ sở ở Đà Nẵng, các giáo sĩ hội truyền giáo mở thêm một số cơ sở khác ở những vùng lân cận như: Hội An, Tam kỳ, Đại Lộc… và cử người dân đi truyền đạo ở Bắc kỳ và Nam kỳ với các hoạt động chủ yếu là: dịch kinh thánh, lập nhà in và mở trường đào tạo mục sư truyền đạo.
Tuy nhiên, chính quyền Pháp ở Việt Nam không ưa đạo Tin lành, họ lo ngại ảnh hưởng của Mỹ thông qua việc phát triển đạo Tin lành. Do đó đạo Tin lành trong thời kỳ này hoạt động rất khó khăn. Khi chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra, thực dân Pháp cho rằng các giáo sĩ Tin lành làm gián điệp cho Đức nên đã ra lệnh đóng cửa nhà thờ Tin lành và cấm các giáo sĩ Tin lành hoạt động. Ngoài ra người Pháp còn dựa vào Hoà ước 6/6/1884 chỉ cho phép Thiên chúa giáo được truyền bá vào Việt Nam. Toàn quyền Đông dương đã cho đóng cửa nhà thờ, trục xuất giáo sỹ truyền giáo CMA. Phải tới năm 1927, khi phong trào dân chủ Pháp lên cao thì những lệnh cấm này mới được huỷ bỏ. Thế nhưng trong sự cấm đoán đó, đạo Tin lành vẫn tìm mọi cách để phát triển. Tới năm 1918, CMA đã lập được 5 chi hội ở Bắc kỳ, 6 chi hội ở Trung kỳ và 5 chi hội ở Nam kỳ. Tất cả các chi hội Tin lành lúc đó đều được giấy phép hoạt động cả của khâm sứ 3 kỳ và đều lấy tên là : “Hội thánh Tin lành Đông Pháp” (MEI).
Từ năm 1924 đến năm 1927, đã có 4 Đại hội đồng của Đạo Tin lành được tổ chức. Đại hội đồng lần thứ IV ở Đà Nẵng đã bầu ra Ban Trị sự Tổng liên Hội thánh Tin lành Việt Nam do mục sư Hoàng Trọng Thừa làm Hội trưởng đầu tiên.
Trong thời kỳ chiến tranh Thế giới thứ 2, phát xít Nhật vào Đông Dương, tình hình chính trị xã hội phức tạp, Uỷ ban truyền giáo của CMA New York đã có lệnh triệu hồi tất cả các giáo sĩ rời Đông Dương. Hội thánh Tin lành Việt Nam rơi vào tình trạng suy thoái, các sinh hoạt tín ngưỡng của tín đồ cũng bị xáo trộn. Chiến tranh kết thúc, các giáo sĩ trở lại Việt Nam và các sinh hoạt của đạo Tin lành ở cả 3 miền được phục hồi.
Trải qua một quá trình truyền bá và phát triển, đến năm 1954, đạo Tin lành có khoảng 60.000 tín đồ với gần 100 mục sư truyền đạo. Trụ sở chung của giáo hội Tin lành Việt Nam được đặt tại Hà nội.
Sau Hiệp định Giơnevơ (1954), đạo Tin lành ở hai miền Nam – Bắc có sự khác nhau. Ở Miền Bắc số đông tín đồ giáo sĩ bị đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch kích động nên đã di cư vào Nam. Những người ở lại miền Bắc đã lập tổ chức giáo hội riêng lấy tên gọi là Hội thánh Tin lành Việt Nam thường gọi là Tổng hội Tin lành miền Bắc với những hoạt động bình thường, phạm vi ảnh hưởng không lớn, số lượng tín đồ cũng tăng một cách không đáng kể. Ở miền Nam, những năm 1954 – 1975, lợi dụng cuộc chiến tranh xâm lược, đế quốc Mỹ, CMA đã lập ra Tổng liên hội thánh Tin lành Việt Nam thường gọi là Hội thánh Tin lành Việt Nam.
Giai đoạn này, đạo Tin lành ở miền Nam phát triển mạnh mẽ. Tin lành ra sức củng cố, mở rộng hệ thống tổ chức cơ sở tôn giáo, các cơ sở kinh tế văn hoá xã hội, mở rộng phạm vi truyền đạo ra nhiều địa bàn, nhất là ở Tây Nguyên. Hội thánh Tin lành miền Nam đã cho tách riêng hai “hạt” vùng dân tộc ít người ra khỏi người Kinh và lập ra “cơ quan truyền giáo người Thượng” dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các giáo sĩ Tin lành Mỹ, đồng thời, mở cửa cho các hệ phái Tin lành, các tổ chức xã hội văn hoá, nhân đạo, từ thiện của Mỹ vào truyền đạo và xây dựng cơ sở khắp miền Nam. Hội thánh Tin lành miền Nam rất chú trọng đào tạo mục sư và truyền đạo, nâng “Trường kinh thánh” thành “Viện kinh thánh thần học” toàn miền Nam, đầu tư mở hai trường kinh thánh trung cấp cho Tây nguyên. Hội thánh Tin lành còn đưa nhiều mục sư và truyền đạo ra nước ngoài đào tạo. Giáo hội Tin lành đã thành lập hệ thống tuyên uý trong quân đội nguỵ từ Bộ Tổng tham mưu đến quân đoàn, quân khu và những đơn vị đặc biệt. Họ đã tuyển chọn và đưa gần 100 mục sư và truyền đạo vào ngụy quân.
Bên cạnh CMA, ở miền Nam còn có hệ phái Tin lành cũng từ Mỹ du nhập vào từ những năm 30 của thế kỷ XX, phát triển chủ yếu sau những năm 50, đó là phái Cơ đốc Phục lâm. Đây là phái lớn thứ hai sau CMA, có hệ thống giáo hội với hơn 10.000 tín đồ, gần 40 mục sư, 34 nhà thờ và một số cơ sở tôn giáo xã hội khác. Hội thánh cơ đốc Phục lâm còn có hơn 20 hệ phái vào truyền giáo và xây dựng cơ sở ở miền Nam như: Baptism, Pentecostim (Ngũ tuần), (Nhân chứng Giêhôva), Jehovah’s Witnesses…
Sau 1975, đất nước được hoà bình thống nhất, giáo sĩ người nước ngoài rút khỏi Việt Nam, một số giáo sỹ người Việt di tản, phạm vi và mức độ hoạt động của đạo Tin lành ở miền Nam thu hẹp lại. Hội thánh Tin lành Miền Nam còn khoảng 450 giáo sĩ, 487 nhà thờ. Các hoạt động của đạo Tin lành ở hai miền Nam Bắc vẫn tiếp tục phát triển tới năm 1990 đã có 300.000 người theo đạo Tin lành.
Những thập kỷ gần đây, các giáo phái Tin lành đã đẩy mạnh hoạt động như phục hồi các hình thức tôn giáo, phát triển tín đồ, củng cố giáo hội… Nhiều hoạt động như vận động lập lại các tổ chức cũ, quan hệ với bên ngoài… Cơ quan cứu trợ và phát triển Cơ đốc Phục lâm gần đây có thực hiện một số dự án viện trợ nhân đạo trong lĩnh vực y tế, giáo dục, thuỷ lợi, ngư nghiệp…
Điểm lại diễn biến 100 năm đạo Tin lành vào Việt Nam, chúng ta có thể ghi nhận rằng quá trình này chịu sự tác động quá lớn của các sự kiện chính trị xã hội, nhất là khi đất nước bị chia cắt. Hội thánh Tin lành Việt Nam ngay từ đầu là một tổ chức chung nhưng sau đó lại bị chia rẽ bởi hai tổ chức giáo hội ở hai miền với những tính chất chính trị và quy mô khác nhau. Tuy vậy, đạo Tin lành đã có cơ sở trong quần chúng ở nhiều vùng trên đất nước ta, thực tế hiện nay đã có khoảng hơn 1,2 triệu tín đồ. Đặc biệt là khoảng 10 năm trở lại đây, đạo Tin lành phát triển đột biến ở Tây Nguyên, Tây Bắc và một số vùng dân tộc thiểu số khác đang đặt ra một số vấn đề nhạy cảm, phức tạp cần được giải quyết, tháo gỡ.
2.2. Một số vấn đề đặt ra hiện nay
Có thể thấy đạo Tin lành là vấn đề nổi trội đột xuất trong các vấn đề tôn giáo ở Việt Nam.Sự hiện diện của cộng đồng Tin lành ở Việt Nam gần đây đã trở nên những điểm nóng khá phức tạp, nhạy cảm.
Trước hết đó là sự va chạm, xung đột với các tập tục gia đình, xã hội, tín ngưỡng cổ truyền và các tôn giáo khác ở Việt Nam. Đối với mỗi người Việt Nam, thờ cúng ông bà, tổ tiên, thành hoàng và những người có công với làng, nước… là sự thiêng liêng, thậm chí đã thành tiêu chí hàng đầu về đạo đức của mỗi thành viên trong gia đình, họ tộc, làng xóm. Những tập tục xuất phát từ trong nghi lễ chịu ảnh hưởng của Nho giáo, thể hiện lòng hiếu thảo của con cái đối với ông bà, cha mẹ như giỗ chạp, ma chay, cưới xin đã góp phần vào nết đẹp văn hoá mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Trong khi đó, đạo Tin lành là một tôn giáo độc thần, chỉ thờ phụng một đức Chúa Trời duy nhất. Tin lành vốn chủ trương triệt để phản đối việc thờ tranh ảnh, tượng thánh và nâng lên một bước nữa là chống lại việc thờ hình tượng. Điều kiện để trở thành tín đồ chính thức của đạo Tin lành là: không dự vào việc hương hoả, cúng cấp cùng các sự dị đoan, không nên dùng hoặc buôn bán các vật không hợp với tôn chỉ của đạo Tin lành như: thuốc phiện, rượu, các vật phẩm thờ cúng hình tượng.
Đạo Tin lành còn có những lí lẽ biện giải để chống đối với các tập tục gia đinh, tín ngưỡng cổ truyền như: Các ông thờ lạy tổ tiên được mấy đời? Thờ trong nhà chẳng qua được hai, ba, đời; thờ trong họ chẳng qua được đôi mươi đời, trước đôi mươi đời há không phải tổ tông xa nữa sao? Cho nên chúng tôi chỉ thờ một mình đức chúa Trời là tổ tông của chúng ta. Khi Tin lành du nhập vào Việt Nam, các nhà truyền giáo đã ra sức bài bác, tuyên chiến với hệ thống tín ngưỡng của người Việt như: xem địa lí,chọn ngày, thờ thổ công, thờ bà chúa Liễu Hạnh…
Vậy, cùng với sự phát triển của đạo Tin lành là sự thay đổi lối sống, tâm lý, tình cảm, sự phân giới về xã hội, văn hoá, tín ngưỡng dân tộc. Nó cũng tạo nên sự chia rẽ trong nội bộ gia đình, dòng họ, lưu tồn định kiến hoài nghi cộng sản, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và nghiêm trọng hơn là các tín đồ Tin lành dễ bị các phần tử xấu lôi kéo chống đối chính quyền, nổi loạn….Đây quả thật là những thách đố đối với chúng ta.
Hơn nữa, hiện nay các thế lực thù địch và lực lượng chống đối muốn thông qua đạo Tin lành để thực hành chủ nghĩa li khai, giải lãnh thổ. Ở Việt Nam, điều này đã trở thành hiện thực khi người ta thấy Tin lành lan toả một cách nhanh chóng ở những vùng đất “phên dậu” của tổ quốc: miền núi phía Bắc, Tây Nguyên..
Đặc biệt, sự phát triển của đạo Tin lành trong các đồng bào dân tộc thiểu ở Tây Nguyên vừa là hệ quả vừa là tác nhân của những diễn biến chính trị phức tạp trên địa bàn này thời gian gần đây. Đạo Tin lành có mặt ở Tây nguyên từ những thập kỷ 20 của thế kỷ trước, kể từ đó, nó đã kiên trì, bền bỉ chiếm cả không gian, xã hội cao nguyên, xâm thực vào buôn làng, văn hoá truyền thống và thâm nhập vào các nhóm xã hội mới xuất hiện theo đà chuyển đổi của nền kinh tế theo hướng thị trường hoá. Thí dụ: nhà thờ Tin lành thay thế cho nhà Rông trong việc đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cộng đồng của con người Tây nguyên. Lễ Noen, Phục sinh thay thế cho lễ Cơm mới, lễ Năm mới cổ truyền…
Số lượng tín đồ của đạo Tin lành ở vùng đất đỏ ba gian này ngày càng gia tăng và luôn chiếm ½ số tín đồ Tin lành cả nước. Các thế lực thù địch trên cơ sở này luôn ra sức kích thích, nuôi dưỡng chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, biệt lập li khai trong một bộ phận tầng lớp trên của các dân tộc Tây Nguyên, đồng thời lôi kéo các lực lượng này vào các phong trào bạo loạn nhằm khuynh đảo thể chế chính trị ở nước ta.
Hiện nay hùa theo chiến dịch: nhân quyền và tự do tôn giáo của chính giới Mỹ, Ksorkơk và các phần tử chính trị phản động gốc Tây Nguyên lưu vong ở Mỹ cho ra đời cái gọi là “Hội thánh Tin lành Đềga”, đòi lập nhà nước Đềga của người Thượng. Đây là một chiêu thức lưu manh chính trị nguy hiểm lôi kéo một số tín đồ không nhỏ của Hội thánh Tin lành miền Nam, tạo nên một vụ áp phe chính trị đội lốt tôn giáo vào đầu năm 2001 và năm 2004.
Vấn đề đạo Tin lành hiện nay vẫn còn là một chủ đề “chứa chất nhiều tiềm năng” đối với các thế lực thù địch Việt Nam và các phần tử cơ hội chủ nghĩa trong chính giới Mỹ để họ khai thác trong các chiến dịch nhân quyền và tự do tôn giáo.
Với tinh thần đảm bảo và tôn trọng quyền phát triển tự do tín ngưỡng tôn giáo của công dân, nhà nước Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc giải quyết các vấn đề tôn giáo, đặc biệt là đối với đạo Tin lành. Nhà nước Việt Nam đã công nhận tư cách pháp nhân của Tổng Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) từ năm 1958 và Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) từ đầu năm 2001. Vậy có nghĩa là chúng ta thừa nhận sự tồn tại khách quan của đạo Tin lành ở Việt Nam, từng bước đưa đạo Tin lành vào thể chế luật pháp tôn giáo để khai thác những mặt tích cực, nhưng kiên quyết ngăn chặn chống lại bất cứ một nhóm người nào lợi dụng đạo Tin lành để phá hoại sự nghiệp đoàn kết toàn dân làm hại đến nền văn hoá lành mạnh của dân tộc.
Là một tôn giáo lớn trên thế giới, đạo Tin lành đã có mặt ở Việt Nam hơn 100 năm. Trong quá trình tồn tại và phát triển ở Việt Nam, Tin lành đã chọn lựa các hình thức hoạt động mềm dẻo, giáo lí và lễ nghi được đơn giản hoá, quần chúng hoá, ở nhiều nơi đã thích nghi dễ dàng với phong tục tập quán của người địa phương, số lượng tín đồ đạo Tin lành ngày càng gia tăng. Điều cốt yếu là tín đồ đạo Tin lành không tách rời với điều kiện lịch sử mới, tìm được nhiều phương sách đúng đắn để hoà nhập trong cộng đồng dân tộc, không đi ngược lại lợi ích của dân tộc. Chúng ta có quyền hy vọng vào một cộng đồng Tin lành ở Việt Nam “kính chúa, yêu nước” “sống phúc âm…” như đường hướng hoạt động của Hội thánh Tin lành miền Bắc và miền Nam đề ra.
_____________________________
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Xuân Hùng, Về nguồn gốc và sự xuất hiện tên gọi đạo Tin lành tại Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, Số 3, 2001.
2. Nguyễn Xuân Hùng, Tìm hiểu những hệ quả của việc truyền giáo Tin lành đối với văn hoá truyền thống và tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, Số 1, 2001.
3. Phạm Đăng Hiển, Góp một góc nhìn về vấn đề đạo Tin lành ở Tây nguyên, Tạp chí Dân tộc học, Số 5, 2003.
4. Nguyễn Thanh Xuân, Bước đầu tìm hiểu đạo Tin lành trên thế giới và ở Việt Nam, NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2002.
5. Nguyễn Văn Trung, Một số hiểu biết về tôn giáo ở Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993.
Linh mục và các chức sắc Giáo xứ Quan Lãng đã đẩy nhiều tín đồ vào con đường vi phạm pháp luật
Trở lại Yên Khê sau 1 ngày xảy ra vụ việc linh mục, chức sắc và nhiều giáo dân Giáo xứ Quan Lãng quá khích gây rối, hành hung, bắt giữ người trái pháp luật, chúng tôi nhận thấy an ninh trật tự ở đây đã được khôi phục, người dân đã trở về với cuộc sống thường nhật, lên đồi chăm chè, ra ruộng chăm sóc lúa, trẻ em chuẩn bị sách vở để bắt đầu năm học mới. Tuy nhiên, dư luận nhân dân vẫn lo lắng, bất an khi những kẻ gây rối trật tự, vi phạm pháp luật, gây mất ổn định ở Yên Khê vẫn chưa bị luật pháp nghiêm trị!
Lật lại lịch sử huyện Con Cuông cũng như xem xét lại quá trình một số linh mục và chức sắc xứ Quan Lãng truyền đạo trái pháp luật ở Yên Khê, mới thấy những quan ngại của người dân là có cơ sở.
Huyện miền núi Con Cuông có 7 dân tộc anh em cùng chung sống, với trên 67 nghìn nhân khẩu. Trong đó, đồng bào dân tộc Thái là đông nhất chiếm tới 67,6%, đồng bào Kinh chiếm 23,9%, còn lại là đồng bào các dân tộc Đan Lai, Nùng, Hoa, Ê Đê và Khơ Mú. Bao đời nay, các dân tộc anh em cùng nhau sinh sống, làm ăn hoà thuận với những tập quán, tín ngưỡng của dân tộc mình…
Trong quá trình đạo Thiên chúa xâm nhập vào Việt Nam, tại Nghệ An mới chỉ phát triển đến địa bàn huyện Anh Sơn. Từ ranh giới của huyện Con Cuông trở lên, các huyện vùng cao không có tôn giáo nào xâm nhập. Sau khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng và nhất là thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay, một số người chủ yếu từ các tỉnh, huyện khác đến Con Cuông làm ăn sinh sống và lập nghiệp, trong đó có một ít là giáo dân.
Hiện số giáo dân trên địa bàn huyện chỉ có 81 hộ với 204 nhân khẩu (chiếm khoảng 0,03% dân số toàn huyện), sinh sống phân tán ở 11/14 xã, thị trấn của huyện Con Cuông. Tuyệt đại đa số giáo dân đều sống hoà thuận “tối lửa tắt đèn có nhau” với bà con các dân tộc anh em bản địa. Vốn là huyện không có đạo Thiên chúa, thực tế tại 14 xã, Thị trấn Con Cuông không có nhà thờ giáo, không có làng giáo dân nên khi lên đây, một bộ phận bà con giáo dân gần như phai nhạt đạo, chỉ khi nào về quê mới đi lễ nhà thờ…
Lịch sử đã chứng minh, huyện Con Cuông từ trước tới nay không có nhà thờ tôn giáo, không có chức sắc tôn giáo, không có đạo gốc, người dân Con Cuông hầu hết là các đồng bào dân tộc thiểu số sống theo phong tục tập quán gốc của mình. Luôn nhất quán trong chính sách “tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng” của nhân dân, cấp ủy chính quyền huyện Con Cuông từ trước đến nay rất quan tâm đến công tác đại đoàn kết dân tộc, không phân biệt lương hay giáo, tất cả đều chung sức, đồng lòng xây dựng quê hương ngày càng phát triển…
Gần đây một số ít giáo dân trên địa bàn huyện có đứng ra làm đơn xin cấp đất xây nhà thờ, nhưng chiếu theo Luật Đất đai không cho phép, cộng thêm thực tế trên địa bàn có số lượng giáo dân rất nhỏ, sống rải rác trên nhiều xã của huyện với địa bàn rộng, do vậy UBND huyện Con Cuông đã giải thích và được bà con chấp thuận. Số giáo dân này đã xuống xã Tường Sơn (Anh Sơn) để sinh hoạt tôn giáo tại nhà thờ Giáo xứ Quan Lãng hoặc thờ phụng ngay tại nhà riêng. Các giáo dân cho rằng, như thế vừa phù hợp với tín ngưỡng vừa thuận lợi cho sự giao lưu với vùng xuôi nên họ rất an tâm sinh hoạt tôn giáo, đóng góp vào sự phát triển kinh tế – xã hội chung.
Tuy nhiên, tình hình tôn giáo của địa phương bỗng nhiên bất ổn kể từ khi linh mục Phạm Ngọc Quang, nguyên quản xứ Quan Lãng lên truyền đạo 7 cuộc tại nhà bà Nguyễn Thị Minh ở khối 6, Thị trấn Con Cuông; truyền đạo tại nhà ông Phạm Thế Trận ở thôn Trung Hương, xã Yên Khê với sự tham gia của gần 300 người từ các huyện Anh Sơn, Tương Dương, Thanh Chương, Yên Thành và tỉnh Hà Tĩnh đến. Dù chính quyền huyện Con Cuông đã nhắc nhở việc tổ chức làm lễ nơi không phải nhà thờ và chưa được sự cho phép của chính quyền là vi phạm pháp luật, nhưng từ cuối năm 2011 đến nay, vào chiều chủ nhật hàng tuần, việc truyền đạo tại nhà riêng ông Phạm Thế Trận vẫn diễn ra.
Sự vi phạm này có tính hệ thống, mang tính khiêu khích có chủ đích ngày càng tăng về mật độ, mức độ: Ngày 13/11/2011, khoảng 300 giáo dân từ nơi khác đến tham gia sinh hoạt tôn giáo đã dùng bình xịt hơi cay, ném đất đá vào bà con địa phương khi những người dân đến phản đối việc truyền đạo trái phép tại đây, và đỉnh điểm là ngày 1/7 vừa qua, đã có 700 tín đồ từ nơi khác đến tổ chức hành lễ, gây rối loạn, bắt giữ, hành hung người dân xã Yên Khê…
Riêng các linh mục xứ Quan Lãng và các chức sắc thì ngày càng thể hiện rõ sự bất chấp pháp luật, bất hợp tác với chính quyền, coi thường dư luận, như: Ngày 15/1/2012, khi tổ công tác của xã Yên Khê đến kiểm tra và lập biên bản việc hành lễ trái pháp luật do linh mục Phạm Ngọc Quang – quản xứ Quan Lãng tổ chức tại nhà ông Phạm Thế Trận thì linh mục này đã có thái độ thách thức: “Tuần sau tôi sẽ đưa cả giáo dân Giáo xứ Quan Lãng lên đây làm lễ; đố ông chủ tịch xã, chủ tịch huyện ngăn cấm được. Các ông làm gì được tôi”!
Trước đó, ngày 23/9/2011, khi đoàn khám chữa bệnh từ thiện của Giáo xứ Quan Lãng do linh mục Phạm Ngọc Quang dẫn đầu đề nghị chính quyền cho tổ chức khám bệnh tại xã Yên Khê nhưng cơ quan chức năng từ chối do chưa đủ thủ tục theo Luật Khám, chữa bệnh quy định thì vị linh mục này vẫn tuyên bố: “Nếu chính quyền không cho chúng tôi vẫn làm”… Tương tự, linh mục Ngô Văn Hậu – Chánh xứ Quan Lãng cũng tỏ thái độ bất hợp tác: Ngày 31/5/2012, tại buổi làm việc với UBND huyện Con Cuông, linh mục Ngô Văn Hậu phát biểu: “Nếu chính quyền huyện không đồng ý thì vào Chủ nhật hàng tuần tôi vẫn cứ lên đây làm lễ”.
Ngày 3/6/2012, ông Trần Đức Phúc – Chủ tịch UBMTTQ huyện Con Cuông đã đến nhà ông Phạm Thế Trận mời linh mục Ngô Văn Hậu lên trụ sở xã Yên Khê để làm việc thì linh mục này từ chối và còn nói với giáo dân có mặt “Chủ nhật tuần sau vẫn làm lễ như thường”. Tại sao các linh mục Giáo xứ Quan Lãng lại lôi kéo nhiều tín đồ từ những địa phương có đông giáo dân và đã được chính quyền các cấp tạo điều kiện cho xây dựng cơ sở thờ tự khang trang, đàng hoàng đến Yên Khê (Con Cuông) – nơi chỉ có 4 hộ với 18 giáo dân sinh sống, chưa có cơ sở thờ tự để hành lễ? Nghịch lý này cho thấy các linh mục, chức sắc Giáo xứ Quan Lãng đã cố ý vi phạm pháp luật một cách có hệ thống.
Trước các hoạt động truyền đạo trái pháp luật, vi phạm trắng trợn các quy định của Nhà nước về các hoạt động tôn giáo của các vị linh mục và chức sắc ở Giáo xứ Quan Lãng và những tín đồ như ông Trận ở Yên Khê đã khiến nhiều giáo dân ở huyện Con Cuông không đồng tình. Bằng chứng là số giáo dân tham gia sinh hoạt tôn giáo trái pháp luật tại nhà ông Trận thời gian qua chỉ có trên dưới 20 người, chiếm khoảng 10% số giáo dân ở Con Cuông…
Ông Trần Văn Khải, 48 tuổi, một giáo dân sống ở xã Bồng Khê (ngay sát xã Yên Khê) cho ý kiến: “Truyền đạo mà không được sự cho phép của chính quyền là sai rồi; mà đã sai rồi, trái pháp luật thì tôi không theo nên không tham gia làm lễ tại nhà ông Phạm Thế Trận. Mỗi ngày lễ trọng thì tôi về làm lễ tại nhà thờ ở xã Tường Sơn, huyện Anh Sơn… Tự do tín ngưỡng thì không ai cấm cả, nhưng cũng phải tuân theo đúng quy định pháp luật, của địa phương”; Còn giáo dân Trần Văn Thọ, 82 tuổi, ở thôn Liên Tân, xã Bồng Khê cũng có ý kiến tương tự: “Do ngay từ đầu tôi không tham gia hành lễ tại nhà ông Trận nên tôi không biết vụ việc ngày 1/7. Song truyền đạo mà không theo đúng pháp luật, không theo đúng chính sách của Nhà nước như thế lâu nay là sai to rồi. Đã sai rồi mà còn gây gổ thế thì còn sai lầm hơn. Các con của tôi đều xuống đi lễ tại nhà thờ ở Dừa – thế mới chính thống hơn”… Những ý kiến của các giáo dân như ông Giáp, ông Thọ đã chứng minh những luận điệu ra rả lâu nay trên các trang web của các thế lực thù địch, chống đối là hoàn toàn bịa đặt để tìm cách nói xấu, bôi nhọ chính quyền trong các vấn đề tôn giáo.
Bà con giáo dân ở huyện Con Cuông đã thể hiện thái độ như vậy. Còn bà con đồng bào các dân tộc, nhất là đồng bào ở xã Yên Khê, Thị trấn Con Cuông và các vùng lân cận thì phản đối rất mạnh mẽ. Bà con cho rằng: Hoạt động truyền đạo nêu trên là trái với thuần phong, mỹ tục vốn có lâu nay của người Thái cũng như các dân tộc anh em ở huyện miền núi vùng cao này; trái với hương ước của bản, gây mất an ninh trật tự trên địa bàn. Và trên hết là trái pháp luật về tôn giáo. Bà con các dân tộc thiểu số bản Trung Hương đã có đơn và chữ ký của hơn 170 người đề nghị chính quyền xử lý nghiêm việc vi phạm trên, lập lại trật tự để bà con yên tâm làm ăn, sinh sống…
Một ngày sau khi xảy ra vụ việc, một số linh mục và chức sắc xứ Quan Lãng cùng một bộ phận giáo dân quá khích gây ra vụ rối loạn, hành hung, bắt giữ người trái phép, tình hình an ninh trật tự trên địa bàn đã được lập lại, không khí an bình đã trở lại. Tiếp xúc với bà con xã Yên Khê, ai cũng bày tỏ lạc quan, tin tưởng song cũng không ít người tỏ ra lo lắng bất an, rằng những cảnh hỗn loạn, kinh hoàng, cái ác lại tiếp tục ngang nhiên diễn ra. Họ đều không muốn cứ đến ngày Chủ nhật lại có hàng trăm người từ đâu đó kéo đến, gây rối ở địa phương mình.
Ông Đặng Văn Trường, trên 70 tuổi, trú ở bản Trung Thành, xã Yên Khê tâm sự: “Việc truyền đạo trái pháp luật thế này diễn ra đã khá lâu, họ làm nhà nguyện, tổ chức truyền đạo mà không thèm thông qua ai cả; Làm nhà nguyện xong thì đưa người từ đâu về làm lễ, chứ người dân ở đây thì không có ai đi. Chúng tôi ở đây rất bức xúc và phiền hà, cũng như mọi người tôi phản đối việc làm này. Con dâu tôi cũng theo đạo Thiên chúa nhưng tôi động viên nó xuống nhà thờ dưới Anh Sơn mà lễ. Chứ ở đây là người ta hành lễ trái pháp luật, đến mà làm chi. Nó nghe ra, không đi nữa. Ngày hôm qua, hàng trăm giáo dân từ đâu kéo đến vây kín đặc bản, lại còn hành hung, bắt giam, đánh trọng thương hàng chục người dân như thế đúng là không coi kỷ cương phép nước ra gì. Phản động chính là ở đó chứ ở đâu, cần chấm dứt, xử lý nghiêm khắc, đích đáng ngay”…
Còn chị Nay Thị Sày, người dân ở bản Trung Hương thì tỏ rõ băn khoăn: “Từ khi họ tập trung nhiều người ở đây thì ta không thích, vì tập quán của bà con dân bản khác hẳn họ. Ngoài ra, họ đến đây còn đem theo nhiều cái phức tạp lắm. Có khi họ làm lễ ban đêm, ồn ào, dân bản đi làm về còn muốn được nghỉ ngơi, yên tĩnh, bà con bực tức nên rủ nhau đi phản đối. Lần trước tôi đi thì bị ném đá vào người, hôm qua thì bị đánh một gậy, giờ còn thâm tím. Mình sống trong xã hội có kỷ cương, sống trên quê hương mình mà bị những người nơi khác đến đánh đập, coi không ra gì.
Ông Nguyễn Trọng Lý ở ngay cạnh nhà ông Phạm Thế Trận thì chia sẻ: “Chúng tôi thấy họ coi thường bà con và chính quyền ở đây quá. Họ cứ nghĩ hôm qua cho mấy cân gạo, mấy viên thuốc là bà con theo liền?. Hôm nay lại đánh gây thương tích cho đến chảy máu, què quặt”.
Còn những bà con khác như chị Lô Thị Hường, Lô Văn Khuê, Tăng Thị Tào đều ở bản Trung Hương, mà chúng tôi đã gặp đều có những ý kiến bày tỏ lo ngại: Lâu nay, thấy nhiều người lạ đến, dân bản cảm thấy sợ và lo vì lộn xộn, mất an ninh trật tự. Hôm qua đúng là kinh hoàng, nhà nào trong thôn cũng có người bị thương. Đứng nấp trong nhà rồi cũng bị đá ném vào. Dân bản đều bất bình lắm. Chúng tôi mong muốn giữ lấy nếp sống của bà con dân tộc Thái lâu ngày ở đây…
Ông Phảy Văn Bay, trưởng bản Trung Hương vốn đã rất mệt mỏi vì nhiều tháng qua tuần nào cũng phải thường trực tại khu vực nhà ông Phạm Thế Trận để kiềm chế sự phẫn nộ của bà con; hôm qua lại là đối tượng bị các giáo dân truy lùng, rượt đuổi, tập trung đập đánh và ném đá. Mình mẩy khắp nơi thâm tím, đi lại rất khó khăn, ông Bay bức xúc cho biết: “Các linh mục của Giáo xứ Quan Lãng đưa hàng trăm người từ nơi khác về hành hung, đánh đập tàn bạo bà con, gây mất ổn định cho bản, xã và huyện thì đây chính là hành vi cố tình phá hoại an ninh trật tự. Tôi sợ rằng với vụ việc ngày hôm qua, trong những lần tới, nếu linh mục xứ Quan Lãng và tín đồ tiếp tục đến nhà ông Trận hành lễ trái phép thì chắc chắn bà con xã Yên Khê sẽ phản ứng dữ dội hơn nhiều. Cơ quan chức năng cần xử lý nhanh, đảm bảo cuộc sống an bình cho bà con”.
Có thể thấy, việc truyền đạo, hành lễ trái pháp luật ở huyện Con Cuông như hiện nay không hề xuất phát từ nhu cầu thực tế của bà con giáo dân ở địa phương, mà là hoạt động đơn phương, áp đặt của các linh mục và chức sắc Giáo xứ Quan Lãng; cộng thêm thái độ bất hợp tác với chính quyền, coi thường pháp luật, thiếu tôn trọng nhân dân địa phương của các vị linh mục ở Giáo xứ Quan Lãng và một số tín đồ như ông Phạm Thế Trận thì rõ ràng, việc truyền đạo trái pháp luật ở Con Cuông không ngoài mục đích gây rối loạn kỷ cương, phép nước, cũng như coi thường dư luận, gây hiệu ứng xấu trong xã hội…
Việc làm sai trái của các vị linh mục và chức sắc Giáo xứ Quan Lãng không những làm tổn hại kinh tế cho chính các giáo dân từ Anh Sơn, Đô Lương, Thanh Chương… khi theo lời linh mục bỏ chỗ gần đi hành lễ ở chỗ xa mà còn không đảm bảo an toàn về tài sản và tính mạng cho các tín đồ tôn giáo khi tụ tập tham gia giao thông với mật độ lớn tới hàng trăm người trên các tuyến đường miền núi hiểm trở.
Thực tế cho thấy, vụ việc ẩu đả, xô xát giữa người dân xã Yên Khê với những tín đồ đi theo các linh mục và chức sắc Giáo xứ Quan Lãng đã để lại hậu quả nghiêm trọng. Không những 58 người dân xã Yên Khê mà còn có giáo dân từ nơi khác đến cũng bị thương do chính các tín đồ giáo dân cùng đi gây ra và phải nhập viện. Chính các linh mục và chức sắc Giáo xứ Quan Lãng chứ không phải ai khác đã đẩy tín đồ của mình vào tội lỗi với hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng như: tham gia hoạt động tôn giáo trái pháp luật, gây rối loạn an ninh trật tự, hành hung, bắt giữ người trái pháp luật.
Nguồn tin: Báo Nghệ An
LINH MỤC VÀ CHỨC SẮC GIÁO XỨ QUAN LÃNG CẦN TÔN TRỌNG PHÁP LUẬT
Sau 2 ngày diễn ra sự việc, một số linh mục và chức sắc Giáo xứ Quan Lãng cùng nhiều giáo dân quá khích gây ra vụ rối loạn, hành hung, bắt giữ người trái phép tại xã Yên Khê, huyện Con Cuông, chúng tôi tìm về Giáo xứ Quan Lãng (gồm các xã Tường Sơn và Hùng Sơn thuộc huyện Anh Sơn), nơi có nhiều giáo dân tham gia vụ việc trên. Cảm nhận đầu tiên khi đến Giáo xứ Quan Lãng là không khí khá yên bình, các hoạt động lao động sản xuất nơi đây vẫn diễn ra bình thường. Tìm hiểu sâu hơn thì thấy, còn nhiều giáo dân Giáo xứ Quan Lãng chưa hết bàn tán về sự việc ngày 1 – 2/7 xảy ra trên địa bàn xã Yên Khê; trong cử chỉ, lời nói của nhiều người vẫn thấy sự cay cú, hằn học…
Từ xa xưa, xã Tường Sơn (trước đây có tên là Quan Lãng, Đông Vinh) vốn được biết đến như là một vùng đất học. Trong những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng, xã Tường Sơn đã có sự phát triển mọi mặt, nhất là trong phát triển kinh tế với việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng dịch vụ thương mại, tiểu thủ công nghiệp, sản xuất ngành nghề; tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 14%, bình quân thu nhập lương thực 710 kg, bình quân giá trị 11 triệu đồng/người/năm; đời sống nhân dân từng bước được nâng lên, hộ nghèo giảm còn dưới 11%. Về văn hoá xã hội, Tường Sơn luôn nằm trong nhóm xã dẫn đầu của huyện, hầu hết xóm, bản đạt làng văn hoá; an ninh trật tự được giữ vững, là địa bàn sạch về tệ nạn xã hội, người dân luôn đoàn kết, sống với nhau đượm tình làng nghĩa xóm. Trong phong trào xây dựng nông thôn mới, Tường Sơn đã phát huy tốt sức dân để xây dựng kết cấu hạ tầng, các tuyến đường giao thông các thôn, xóm từng bước được nâng cấp, giao thông đi lại thuận tiện.
Tường Sơn là trung tâm của Giáo xứ Quan Lãng. Nhiều năm qua, cấp uỷ chính quyền, mặt trận và các đoàn thể quần chúng của xã luôn quan tâm công tác tôn giáo, thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng khu dân cư với 10 nội dung sống tốt đời đẹp đạo; thường xuyên tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho giáo dân ngày tết ngày lễ, hỗ trợ xoá nhà tạm bợ, dột nát cho các hộ giáo dân; tạo điều kiện tốt nhất cho đạo Thiên chúa phát triển… Hiện nay, Tường Sơn có 562 hộ với hơn 3.000 giáo dân (chiếm hơn 30% dân số toàn xã). Bà con giáo dân sống rải rác ở nhiều xóm trong xã, trong đó tập trung nhiều nhất ở xóm 9, xóm 10 và xóm 7 (riêng xóm 9 và xóm 10, tỷ lệ giáo dân chiếm trên 80%). Tường Sơn có 3 giáo họ (Hội Phước, Chinh Yên và Đức Thịnh) với 3 nhà thờ quy mô lớn và khang trang, được hoàn thành và đưa vào sử dụng trong vài ba năm gần đây, hiện tại do Linh mục Ngô Văn Hậu phụ trách. Riêng nhà thờ chính được xây dựng từ hàng chục năm trước, qua nhiều lần tu sửa và nâng cấp, đến nay rất khang trang và bề thế.
Tương tự như ở xã Tường Sơn, xã Hùng Sơn (vốn từ xã Đông Vinh tách ra) nhiều năm qua đã có bước phát triển vượt bậc. Bằng tư duy làm ăn mới, những bãi bồi ven sông Lam giờ đây đã là những cánh đồng mía xanh mướt, những quả đồi thuộc vành đai 20 km bao quanh xã từ hoang vu, trơ trọi nay đã “vươn mình” trở thành những vườn chè, rừng keo mang lại giá trị kinh tế cao. Dồn điền, đổi thửa, phát triển chè công nghiệp, chăn nuôi lợn, trâu bò hàng hóa và các loại cây nguyên liệu (keo, mây…) song song với tích cực thực hiện đưa cơ giới hóa vào đồng ruộng, ứng dụng KHKT trong sản xuất cây lương thực thực sự là một hướng đi đúng đắn, là một cuộc cách mạng tạo nên sức bật mạnh mẽ cho người dân Hùng Sơn. Xã cũng luôn tạo điều kiện tốt nhất cho đạo Thiên chúa phát triển, xã có 215 hộ với gần 1.300 giáo dân (chiếm 33% dân số toàn xã) cũng thuộc Giáo xứ Quan Lãng.
Ở Hùng Sơn có 2 giáo họ (Đồng Trấm và Mạc Đồng Tân) với 2 nhà thờ khang trang do Linh mục Nguyễn Đình Thục phụ trách. Nhà thờ thuộc Giáo họ Mạc Đồng Tân được xây dựng từ năm 1994, còn nhà thờ Giáo họ Đồng Trấm vừa được hoàn thành và đưa vào sử dụng từ năm 2011. Cả 5 nhà thờ thuộc địa bàn 2 xã Tường Sơn và Hùng Sơn đều được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và công nhận là nơi tổ chức các hoạt động tôn giáo hợp pháp. Trong Giáo họ Đồng Trấm có nhiều hộ giáo dân làm ăn giỏi, tổng thu nhập cả năm khoảng vài trăm triệu đồng, như gia đình các anh: Đậu Đình Tám, Lê Xuân Long, Đậu Văn Sáng…
Các công trình tôn giáo luôn phản ánh đúng bản chất tình hình đời sống của các tín đồ. Sự thực thì thời gian qua, đời sống của bà con giáo dân ở hai xã Tường Sơn và Hùng Sơn có nhiều khởi sắc, cái đói, cái nghèo đã được đẩy lùi. Bà con tích cực tham gia sản xuất nông nghiệp và phát triển thêm nhiều nghề phụ như: mộc dân dụng, làm bún, bánh đa, bánh mướt… có nhiều hộ kinh doanh với quy mô lớn và mua sắm được xe ô tô. Đến với Giáo xứ Quan Lãng, nhìn 5 nhà thờ khang trang, bề thế như hiện nay, chắc hẳn nhiều người không khỏi có cảm giác ngưỡng mộ sự giàu đẹp, trù phú của vùng giáo này. Và không phải nơi đâu cũng có số lượng nhà thờ nhiều, lớn như Giáo xứ Quan Lãng để hoàn toàn có thể đáp ứng nhu cầu giảng đạo và tổ chức hành lễ của các linh mục cũng như nhu cầu sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của toàn thể giáo dân… Về đến Quan Lãng, nhìn thấy 5 cơ sở thờ tự này khiến chúng tôi không khỏi đặt ra câu hỏi khi liên hệ lại hành vi truyền đạo trái pháp luật của các linh mục và chức sắc Giáo xứ Quan Lãng tại địa bàn huyện Con Cuông lâu nay, đó là vì cớ gì mà các vị linh mục (cụ thể hiện nay là Linh mục Ngô Văn Hậu và Nguyễn Đình Thục) và các chức sắc tôn giáo lại huy động hàng trăm tín đồ của Giáo xứ Quan Lãng lên tận xã Yên Khê để tổ chức hành lễ trái pháp luật? – Trong khi quãng đường từ giáo xứ Quan Lãng lên địa bàn xã Yên Khê (nơi hành lễ trái pháp luật) có chiều dài trên 25 km. Rất dễ nhận thấy, việc đưa tín đồ đến nơi khác để hành lễ như vậy đã gây lãng phí về cơ
sở vật chất (hệ thống nhà thờ), lãng phí thời gian, công sức và tiền của (chi phí xăng xe) của bà con giáo dân. Chưa kể việc đi lại với số lượng lớn các loại phương tiện (chủ yếu là xe gắn máy) trên đường núi hiểm trở sẽ làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn giao thông, đe dọa đến tính mạng của tín đồ.
Rõ ràng, việc các linh mục và chức sắc tôn giáo huy động bà con giáo dân lên địa bàn xã Yên Khê hành lễ trái pháp luật không phải vì mục đích tín ngưỡng mà vì động cơ chính trị, cụ thể là dùng số đông để tạo áp lực đối với các cấp chính quyền huyện Con Cuông; cố tình gây ra những vụ việc vi phạm pháp luật như ngày 1 – 2/7 vừa qua; dẫn đến hậu quả làm cho 58 người dân cả lương và giáo của Con Cuông và Anh Sơn bị thương phải nhập viện.
Hai ngày nay, người dân xã Tường Sơn đang rất quan tâm và dõi theo tình hình sức khỏe chị Ngô Thị Thanh – người bị thương khá nặng do trong cuộc ẩu đả ngày 1/7 đã bị ném đá trúng đầu và phải nhập viện. Ngay sau khi bị thương, chị được gia đình chuyển ra Bệnh viện Việt – Đức (Hà Nội) để tiến hành phẫu thuật. Đến nay, ca phẫu thuật đã thành công và không còn nguy hiểm đến tính mạng… Chị Ngô Thị Thanh năm nay 34 tuổi, đã lập gia đình và có 4 con còn nhỏ, hiện tại cư trú ở xóm 12, xã Tường Sơn. Cuộc sống gia đình chị Ngô Thị Thanh chưa phải là sung túc, nguồn thu nhập chủ yếu dựa vào nương rẫy và đồng ruộng, chồng của chị đang sang Lào làm ăn. Cũng như nhiều giáo dân khác ở Giáo xứ Quan Lãng, chiều 1/7, nghe theo lời của linh mục quản xứ Ngô Văn Hậu và các chức sắc tôn giáo, chị Thanh đã lên xã Yên Khê để dự buổi truyền đạo trái pháp luật.
Một câu hỏi đặt ra là, tại sao một người phụ nữ nuôi nhiều con nhỏ, cuộc sống gia đình còn gặp nhiều khó khăn như chị Thanh lại vượt chặng đường 25 km đến tận Yên Khê để đến nỗi bị “tai bay, vạ gió” dẫn đến bị thương và ảnh hưởng đến tính mạng? Các linh mục và các vị chức sắc tôn giáo Quan Lãng phải chịu trách nhiệm về những hậu quả này đối với các giáo dân xứ Quan Lãng.
Đến nay, nhiều giáo dân ở Quan Lãng vẫn còn tỏ ra cay cú và có những lời lẽ không chính xác mỗi khi nhắc đến sự việc vi phạm pháp luật của các linh mục, chức sắc và phần tử giáo dân quá khích tại xã Yên Khê. Vì bị tiêm nhiễm, xúi giục và xuyên tạc trong các buổi rao giảng của linh mục, họ nói những lời trái với sự thật, thậm chí bịa đặt hay xuyên tạc để gây mất đoàn kết và khoét sâu mâu thuẫn với các cấp chính quyền ở Con Cuông. Chính các linh mục và chức sắc Giáo xứ Quan Lãng đã cố tình “lập lờ đánh lẫn con đen” khiến các giáo dân ở Giáo xứ Quan Lãng (những người không đi hành lễ trái pháp luật tại xã Yên Khê) không biết rằng: Trong vụ gây rối, hành hung, bắt giữ người trái pháp luật của các linh mục, chức sắc và phần tử giáo dân quá khích thì không chỉ riêng chị Ngô Thị Thanh bị thương nặng, mà còn có 58 người dân của xã Yên Khê phải nhập viện cấp cứu, trong đó có bà Vi Thị Hoa (50 tuổi, trú ở bản Pha, xã Yên Khê, huyện Con Cuông) bị đánh đến nỗi chấn thương sọ não, hiện đang hôn mê sâu tại Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa tỉnh. Không biết rằng có 43 người dân xã Yên Khê đã bị các linh mục và chức sắc cùng các tín đồ quá khích bắt giam, hành hạ, đánh đập tàn bạo nhiều lần trong suốt 12 giờ đồng hồ, trong đó có 15 phụ nữ (1 chị mang thai) cũng không thoát khỏi đòn, côn; thậm chí có người dân Yên Khê còn bị giáo dân lăng nhục bắt liếm chân…
Những nhận thức sai của nhiều giáo dân ở Giáo xứ Quan Lãng có khởi nguồn là thời gian qua, lợi dụng đức tin tâm linh, các vị linh mục và chức sắc tôn giáo ở Giáo xứ Quan Lãng đã tiêm nhiễm vào ý nghĩ của bà con giáo dân những tư tưởng sai lệch về vấn đề truyền đạo và tổ chức hành lễ trái pháp luật trên địa bàn xã Yên Khê. Trong các buổi hành lễ tại nhà thờ, các linh mục thường rao giảng rằng Đảng và Nhà nước cho phép tự do tín ngưỡng tôn giáo nhưng các cấp chính quyền ở Con Cuông đã ngăn cản việc hành lễ của các hộ giáo dân ở xã Yên Khê. Do đó, bà con giáo dân thuộc Giáo xứ Quan Lãng phải ủng hộ giáo dân Yên Khê bằng cách lên đó để cầu nguyện, thực chất là để tạo sức ép đối với chính quyền địa phương. Như vậy, các linh mục và chức sắc Giáo xứ Quan Lãng đã cố tình phớt lờ quy định của Nhà nước là tổ chức hành lễ và xây dựng các cơ sở thờ tự tôn giáo phải thông qua và được sự đồng ý, cho phép của chính quyền địa phương…
Vào chiều 1/7, các linh mục và ban hành giáo Giáo xứ Quan Lãng đã chỉ đạo gióng chuông nhà thờ và huy động số lượng lớn giáo dân (có mang theo hung khí) lên Yên Khê gây rối trật tự. Sự việc này cho thấy, ở Giáo xứ Quan Lãng, các vị linh mục lợi dụng uy tín tôn giáo đã xúi giục con chiên của mình làm những việc trái pháp luật và trái với giáo lý Thiên chúa… Vào ngày 2/7, các linh mục và ban hành giáo Giáo xứ Quan Lãng lại gióng chuông nhà thờ, với 4 nội dung: Cảm ơn giáo dân đã vì giáo hội; cầu nguyện cho chị Ngô Thị Thanh; Kêu gọi củng cố lòng tin; Mở rộng quan hệ các họ, giáo xứ… Chúng tôi còn nắm bắt được thông tin, linh mục và các chức sắc Giáo xứ Quan Lãng vẫn lôi kéo bà con giáo dân tiếp tục lên xã Yên Khê, huyện Con Cuông tham gia hành lễ trái pháp luật. Như vậy, đến giờ phút này, các linh mục và chức sắc giáo xứ Quan Lãng vẫn cố tình đưa các giáo dân vào con đường vi phạm pháp luật.
Hiện nay, còn rất nhiều người dân xã Yên Khê do bị các giáo dân quá khích theo các linh mục, chức sắc Giáo xứ Quan Lãng hành hung, đánh đập vẫn phải nằm viện chưa hồi phục, dư luận quần chúng nhân dân huyện Con Cuông đang bất bình cao độ, không loại trừ khả năng xấu nhất là người dân tự phát tập hợp phản ứng lại các giáo dân quá khích… Các linh mục và chức sắc Giáo xứ Quan Lãng biết rõ điều đó nhưng vẫn đầu độc, kích động các giáo dân lên hành lễ trái pháp luật tại Con Cuông. Không khó để nhận ra, các linh mục và chức sắc Giáo xứ Quan Lãng đang cố tình dẫn dắt tín đồ vào con đường vi phạm pháp luật, gây rối loạn để phục vụ động cơ chính trị, nhằm mục đích phá hoại, vi phạm kỷ cương phép nước.
Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và công nhận các công trình tín ngưỡng hợp pháp, nhưng sẽ nghiêm trị những tổ chức, cá nhân lợi dụng tự do tín ngưỡng để phục vụ động cơ chính trị, gây rối trật tự xã hội và phá vỡ tình đoàn kết cộng đồng. Các vị linh mục và chức sắc tôn giáo thuộc Giáo xứ Quan Lãng và các vùng lân cận cần chấm dứt ngay các hành vi vi phạm pháp luật, các ý đồ kích động giáo dân vi phạm kỷ cương phép nước; để xứng đáng với niềm tin yêu của các con chiên, với uy tín của Thiên chúa giáo. Đồng thời, các giáo dân cần sớm nhận rõ bản chất của sự việc để tránh bị lôi kéo, xúi giục thực hiện mưu đồ không trong sáng và vô tình trở thành “con rối” trong tay những linh mục và chức sắc Giáo xứ Quan Lãng có tham vọng chính trị.
Mong muốn của chính quyền và toàn thể nhân dân Nghệ An không kể lương hay giáo là được sống trong một xã hội yên bình, lành mạnh, đượm tình người bởi mọi người dân Việt Nam – người dân xứ Nghệ đều được sinh ra từ “một bọc trứng của Mẹ Âu Cơ”.
Lãnh đạo huyện Con Cuông, Anh Sơn thăm hỏi các nạn nhân trong vụ ẩu đả tại Yên Khê
Sau khi xảy ra vụ việc một số giáo dân Giáo xứ Quan Lãng đến địa bàn xã Yên Khê – Con Cuông truyền đạo trái pháp luật và gây gổ, hành hung người dân địa phương chiều 1/7, đã có 58 người bị thương, trong đó nhiều người bị thương nặng phải đi cấp cứu tại Bệnh viện Trung ương, Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa tỉnh và Bệnh viện Đa khoa huyện Con Cuông. Sáng 2/7, huyện Con Cuông đã tổ chức đoàn công tác do Bí thư Huyện ủy Vi Xuân Giáp làm trưởng đoàn, cùng Chủ tịch UBND huyện Hoàng Đình Tuấn và lãnh đạo các tổ chức, đoàn thể xã hội của huyện đi thăm hỏi, động viên những người bị thương đang điều trị tại bệnh viện huyện. Nhiều cơ quan, đơn vị, đoàn thể cũng tổ chức đi thăm hỏi, động viên những người bị thương như: Công an huyện, Kiểm lâm huyện, Đài truyền hình huyện…, giúp họ sớm ổn định tinh thần, yên tâm điều trị.
Chiều 2/7, UBND huyện Anh Sơn cử đồng chí Đặng Văn Tâm – Phó phòng Nội vụ cùng các đồng chí cán bộ Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện và lãnh đạo xã Tường Sơn đến động viên thăm hỏi gia đình chị Ngô Thị Thanh – giáo dân thuộc Giáo xứ Quan Lãng, trú tại xóm 12, xã Tường Sơn (Anh Sơn) đã bị trọng thương trong vụ ẩu đả ở xã Yên Khê (Con Cuông). Các thành viên trong gia đình chị Thanh bày tỏ sự cảm ơn chân thành và niềm xúc động trước sự quan tâm của chính quyền địa phương và cho biết trong buổi chiều 2/7, chị Thanh được phẫu thuật tại Bệnh viện Việt Đức (Hà Nội). Hiện nay chị Ngô Thị Thanh đã qua cơn nguy kịch. |